Giữa thế kỷ 20 Lãnh_thổ_Alaska

Năm 1920, việc thông qua Đạo luật Giao thương Đường biển năm 1920 đã buộc các tàu thuyền mang cờ Hoa Kỳ phải là các tàu thuyền được đóng tại Hoa Kỳ, do công dân Hoa Kỳ làm chủ, và được cấp giấy phép theo luật lệ của Hoa Kỳ. Tất cả hàng hóa ra vào Alaska phải do các hãng vận tải Mỹ đảm trách và được đưa đến Seattle trước khi được chuyên chở đi xa hơn, khiến cho Alaska lệ thuộc vào tiểu bang Washington. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ phán quyết rằng điều khoản trong hiến pháp nói về một tiểu bang không được kiểm soát nền thương mại của một tiểu bang khác không thể áp dụng bởi vì Alaska chỉ là một lãnh thổ. Chi phí trả cho các nhà vận chuyển thương mại của Seattle bắt đầu gia tăng vì lợi dụng tình hình do phán quyết đưa ra.

Đại khủng hoảng làm cho giá cá và đồng là hai nguồn quan trọng của nền kinh tế Alaska vào thời gian đó giảm mạnh. Tiền lương giảm và lực lượng lao động giảm hơn phân nửa. Năm 1935, tổng thống Franklin Delano Roosevelt nghĩ rằng người Mỹ từ các khu vực nông nghiệp có thể được đưa đến Thung lũng Matanuska-Susitna của Alaska để có cơ hội tự mưu sinh bằng nông nghiệp. Những người thực dân phần lớn là từ các tiểu bang miền bắc như Michigan, Wisconsin, và Minnesota theo niềm tin rằng chỉ có những người lớn lên tại vùng khí hậu tương tự như khí hậu của Alaska thì mới có thể chịu đựng nổi cuộc sống định cư tại nơi đó. Hội Cải thiện người gốc Congo thống nhất (United Congo Improvement Association) yêu cầu tổng thống cho định cư khoảng 400 nông dân người Mỹ gốc châu Phi tại Alaska. Hội cho rằng lãnh thổ này sẽ mang đến quyền chính trị đầy đủ cho những nông dân này. Tuy nhiên thành kiến phân biệt chủng tộc và niềm tin cho rằng chỉ có những ai từ các tiểu bang miền bắc mới có thể trở thành người định cư thích hợp tại nơi đó đã khiến cho lời đề nghị trên bị thất bại.

Việc thám hiểm và định cư tại Alaska đã sẽ không thể nào thực hiện được nếu như không có sự phát triển về máy bay. Máy bay giúp cho một làn sóng người định cư đến được những vùng đất nằm xa bên trong Alaska. Tuy nhiên vì điều kiện thời tiết khắt nghiệt của Alaska cũng như tỉ lệ cao số phi công so với dân số, có trên 1700 vụ máy bay rơi trên khắp lãnh thổ của Alaska. Nhiều vụ rơi máy bay có nguồn gốc từ cuộc tăng cường quân sự tại Alaska trong suốt cả thời Đệ nhị Thế chiếnChiến tranh lạnh.

Tầm quan trọng chiến lược của Alaska đối với Hoa Kỳ trở nên ngày càng rõ rệt trong suốtChiến tranh thế giới thứ hai. Từ tháng 6 năm 1942 đến tháng 8 năm 1943, Nhật Bản đã tìm cách xâm nhập Hoa Kỳ bằng ngả chuỗi quần đảo Aleut qua trận Quần đảo Aleut. Sự kiện này đánh dấu lần thứ hai kể từ Chiến tranh 1812 rằng đất Mỹ bị chiếm đóng bởi một kẻ thủ ngoại quốc. Lần đầu tiên là sự kiện Nhật Bản chiếm đóng đảo Guam vào tháng 12 năm 1941. Người Nhật sau cùng cũng bị đánh bật khỏi Quần đảo Aleut bởi một lực lượng gồm 34.000 binh sĩ Mỹ.[3] Vào mùa xuân và hè năm 1945, Cold Bay trên bán đảo Alaska là nơi thực hiện chương trình chuyển giao tham vọng nhất và lớn nhất trongChiến tranh thế giới thứ hai có tên gọi là Dự án Hula. Trong chương trình này, Hoa Kỳ chuyển giao 149 tàu hải quân các loại cho Liên Xô và đào tạo 12.000 nhân lực Xô Viết trước khi Liên Xô tham gia chiến tranh chống Nhật Bản. Tại mọi thời điểm nào, có khoảng 1.500 người Mỹ hiện diện tại Cold Bay và đồn Randall trong suốt Dự án Hula.[4]